Bài viết của đệ tử Đại Pháp tại tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc

(Tiếp theo Phần 1)

[MINH HUỆ 11-11-2025]

Làm người biện hộ cho người nhà

Không lâu sau khi tôi kết thúc án oan và trở về nhà, vợ tôi và một đồng tu khác đã bị bắt giữ trái phép vì giảng chân tướng ở chợ. Trong thời gian đó, tôi đã làm theo các thủ tục pháp lý để gửi rất nhiều văn bản pháp luật chuẩn mực đến các ban ngành, kết hợp nội dung chân tướng và các điều khoản pháp luật một cách khéo léo, hợp tình hợp lý, có căn cứ rõ ràng, và đã phát huy tác dụng rất tốt.

Trước khi vợ tôi bị đưa ra xét xử trái phép, tôi đã mang đầy đủ các loại tài liệu đến tòa án để xin làm người biện hộ cho người nhà. Vì chuẩn bị chu đáo nên đã được chấp thuận ngay lúc đó. Cơ hội được gặp thẩm phán phụ trách là rất hiếm có, vì vậy tôi đã dùng thái độ thỉnh giáo, tự nhiên nói về quan điểm của mình đối với vụ án và nhờ ông ấy nhận xét. Tôi đã nói từ việc Pháp Luân Công rốt cuộc là gì, đến tại sao lại xảy ra sự thay đổi mang tính bức hại vào năm 1999; từ việc các học viên Pháp Luân Công rốt cuộc đang làm gì, đến việc áp dụng sai tội danh “lợi dụng tà giáo phá hoại việc thi hành pháp luật”; từ các đặc điểm cơ bản của tội phạm, đến “pháp luật không quy định rõ thì không phải là tội”; từ các “phong trào quần chúng” trong lịch sử, cho đến việc lợi dụng pháp luật để bức hại những người dân lương thiện vô tội hiện nay. Thẩm phán lặng lẽ lắng nghe, không ngừng gật đầu.

Lúc này, một giọng nữ vang lên từ phía sau bên phải: “Anh ơi, anh làm nghề gì vậy? Anh nói hay quá!” Tôi quay đầu lại nhìn, thì ra là một nữ thẩm phán. Và lúc này tôi mới phát hiện ra, đây là một văn phòng lớn, có nhiều thẩm phán đang làm việc ở đây.

Mặc dù tôi đã trở thành người biện hộ cho người nhà, nhưng thẩm phán chủ tọa nói với tôi: “Cấp trên có quy định, một số hồ sơ chỉ được xem, không cho phép chụp ảnh.” Tôi yêu cầu ông ấy đưa ra căn cứ pháp lý, ông ấy bất đắc dĩ nói: “Không có.”

Tôi đã tìm đến phòng kỷ luật của tòa án, người tiếp tôi là một người tự xưng đã từng là thẩm phán tòa hình sự. Ban đầu, ông ta hứa rằng nhất định sẽ cho tôi sao chép hồ sơ như bình thường; sau đó khi nghe nói đây là vụ án liên quan đến (việc vu khống) Pháp Luân Công, ông ta lập tức thay đổi thái độ. Ông ta nói: “Vụ án Pháp Luân Công là trường hợp đặc biệt, không cho phép chụp ảnh!” Tôi nói: “Căn cứ pháp lý là gì?” Ông ta lại hét lên: “Đây là vấn đề chính trị, không tuân theo các quy định pháp luật thông thường.” Đồng thời, như thể mất kiểm soát cảm xúc, ông ta lớn tiếng la hét, nói rất nhiều điều không liên quan. Tôi vừa phát chính niệm thanh trừ các nhân tố tà ác phía sau ông ta, vừa nhìn ông ta một cách uy nghiêm, lớn tiếng nói với ông ta: “Dù là gì đi nữa, không thể nói miệng được, phải đưa ra quy định!” Ông ta bình tĩnh lại, nói: “Tôi biết anh là người có học, tôi không bàn lý luận với anh, dù sao thì việc này là như vậy, tôi cũng không có cách nào.”

Mặc dù tôi đã mời luật sư nhân quyền biện hộ cho vợ tôi, nhưng khi tòa án hỏi tôi có cần luật sư trợ giúp pháp lý không, tôi vẫn không do dự trả lời “Có”. Bởi vì tôi muốn nhân cơ hội này để giảng chân tướng cho luật sư, cứu luật sư, để luật sư phát huy tác dụng tốt trong việc này, đồng thời cũng là để luật sư tích công đức cho chính mình. Tôi nhanh chóng liên lạc được với một nữ luật sư họ Mã, cô ấy thẳng thắn nói với tôi: “Tôi đã tiếp xúc với các vụ án (vu khống) Pháp Luân Công, cũng biết các học viên Pháp Luân Công là vô tội, nhưng tôi không dám nói thẳng như vậy trước tòa.” Tôi nói: “Vậy cô xem thế này có được không? Gia đình tôi đã mời riêng một luật sư biện hộ vô tội, để anh ấy chủ đạo, cô cứ theo lời anh ấy nói, ở những điểm mấu chốt cô chỉ cần nói đồng ý với ý kiến của anh ấy là được.” Cô ấy gật đầu đồng ý.

Như vậy, vợ tôi đã có ba người biện hộ. Theo quy định, mỗi bị cáo chỉ có thể có tối đa hai người biện hộ. Tâm tôi không động, tôi nghĩ: Nếu thẩm phán thực sự nêu ra vấn đề này, tôi thà nhường suất người biện hộ của mình, cũng phải để cho luật sư Mã hoàn thành nhiệm vụ, vì đó là đang cứu cô ấy. Kết quả là vào ngày xét xử trái phép, thẩm phán hoàn toàn không đề cập đến việc này, có lẽ là vì đồng tu bị hại còn lại không có người biện hộ. Trong quá trình đó, ba người biện hộ chúng tôi đã phối hợp rất tốt, phần biện hộ chính do luật sư nhân quyền trình bày, những phần nhạy cảm có thể động đến tà ác thì do tôi nói, sau đó luật sư Mã sẽ nói: “Tôi đồng ý với ý kiến của hai vị biện hộ.”

Giải cứu vợ lần nữa

Vài năm sau, vợ tôi lại bị bắt cóc, khi cô ấy bị bắt, tôi cũng đối mặt với nguy cơ phải lưu lạc không nơi nương tựa. Vào lúc cần phải lựa chọn, tôi tự nhủ trong lòng: “Nếu mình lưu lạc không chốn nương thân, thì làm sao giải cứu vợ được? Nếu mình lưu lạc không chốn nương thân, thì làm sao có thể chấm dứt cuộc bức hại này?” Vì vậy, tôi quyết định đến đồn cảnh sát để lấy chìa khóa, đường đường chính chính trở về nhà!

Trên đường đi, đủ loại niệm đầu liên quan đến tâm sợ hãi không ngừng nổi lên: “Cảnh sát có đang tìm mình không, có đang chờ để bắt mình không?” Tôi nghĩ đến lời giảng Pháp của Sư phụ. Cuối cùng, tôi cắn răng, quyết tâm, liều mình, tôi phải trực tiếp phủ định cuộc bức hại, tôi phó thác bản thân cho Sư phụ!

Đến đồn cảnh sát, tôi nói rõ mục đích của mình: “Tôi muốn về nhà, nhưng không có chìa khóa. Tôi nghe nói vợ tôi bị các anh bắt đến đây, tôi muốn biết tại sao lại bắt cô ấy? Đồng thời đưa chìa khóa của cô ấy cho tôi, nếu không tôi không vào nhà được.” Cảnh sát trực ban nói với tôi rằng cảnh sát thụ lý vụ án sẽ quay lại sau một giờ, sau khi quay lại mới có thể đưa chìa khóa cho tôi, và bảo tôi đợi ở cửa trước.

Hai, ba giờ sau, đã hơn 8 giờ tối, cảnh sát thụ lý vụ án đến thương lượng với tôi: “Cảnh sát phụ trách vật phẩm tạm giữ đã say rượu, không đến được, anh có thể ngày mai quay lại không?” Tôi lớn tiếng nói: “Sao được chứ?! Mùa hè thế này, khắp nơi đều là muỗi. Tôi đã đợi ở đây từ lúc trời sáng, trong lúc đó các anh cũng không báo cho tôi. Bây giờ muộn thế này rồi, tôi đi đâu? Sao các anh cảnh sát lại có thể làm việc như vậy?” Anh ta nói: “Tôi cũng không có cách nào.” Thế là tôi gọi số 110 ngay trước mặt anh ta. Sau khi nghe tình hình của tôi, bên kia hứa sẽ giải quyết ngay lập tức. Cứ như vậy, tôi đã đường đường chính chính lấy được chìa khóa và trở về nhà.

Vài ngày sau, tôi lại đến đồn cảnh sát, trực tiếp giao bản sao Văn kiện số 39 của Bộ Công an và Lệnh số 50 của Tổng cục Báo chí và Xuất bản cho cảnh sát thụ lý vụ án. Anh ta muốn từ chối không nhận, tôi nghiêm túc nói với anh ta: “Anh phải nhận, đây là tài liệu liên quan đến vụ án này mà tôi nộp. Hai văn kiện này có thể chứng minh vợ tôi vô tội, những thứ bị khám xét mang đi từ nhà tôi cũng không phải là vật phẩm cấm.” Thế là, anh ta đã ngoan ngoãn nhận lấy.

Lúc này, Diễn đàn Công lý đã rất hoàn thiện, tôi điền vào mẫu do diễn đàn cung cấp, tiến hành tố cáo các cảnh sát liên quan đến vụ án, gửi thư tố cáo đến hệ thống công an, viện kiểm sát, tòa án của trung ương, tỉnh, thành phố, quận, đồng thời cũng gửi thư cho chính các cảnh sát bị tố cáo. Sau đó, tôi nhận được phản hồi qua điện thoại từ một số ban ngành, có nơi bày tỏ sự đồng cảm, có nơi đưa ra gợi ý, không có một phản hồi tiêu cực nào. Cùng với tiến trình của vụ án, tôi còn gửi đến các ban ngành liên quan các văn bản pháp lý như “Đơn xin giải thích pháp luật qua vụ án”, “Đơn xin thay đổi biện pháp cưỡng chế”, “Đơn xin không khởi tố” và “Đơn xin loại trừ bằng chứng bất hợp pháp”.

Sau khi vụ án được chuyển lên viện kiểm sát, tôi tìm đến cảnh sát thụ lý vụ án và nói với anh ta: “Theo pháp luật, sau khi hồ sơ được chuyển đến viện kiểm sát, các vật phẩm liên quan đến vụ án sẽ được chuyển giao cùng hồ sơ, phần còn lại phải được trả lại cho gia đình.” Anh ta nói với tôi: “Đã chuyển giao hết rồi, không có gì trả lại.” Tôi yêu cầu anh ta cung cấp biên bản tạm giữ, anh ta cứ lần lữa không đưa. Vì vậy, tôi đã nghiêm túc đưa ra yêu cầu công khai thông tin với anh ta — yêu cầu anh ta cung cấp cho tôi các quy định cụ thể và quy trình liên quan của đồn cảnh sát về việc xử lý các vật phẩm tạm giữ. Anh ta sợ hãi, nói: “Chúng tôi làm việc theo đúng pháp luật, toàn bộ quá trình đều có ghi hình.” Tôi nói với anh ta: “Bây giờ, tôi đang nói về việc công khai thông tin, yêu cầu công khai các quy định cụ thể và quy trình làm việc.” Anh ta thực sự không còn cách nào khác, vài ngày sau đã trả lại cho tôi các sản phẩm điện tử như máy tính, điện thoại.

Sau khi bản án trái pháp luật được ban hành, trong đó có nói rằng các tài liệu tuyên truyền tại nhà không phải do chính bị cáo làm ra. Thế là, tôi cầm bản án đến đồn cảnh sát, yêu cầu trả lại các vật phẩm không liên quan đến vụ án này. Cảnh sát liên quan vẫn cứ trì hoãn không giải quyết, tôi liền đến thẳng phòng tiếp dân của phân cục công an quận, đúng lúc lãnh đạo phân cục đang trực ban, sau khi nghe tôi trình bày, ông ấy tỏ ra rất không hài lòng với biểu hiện của đồn cảnh sát, và hứa rằng tôi không cần phải đi lại nữa, sẽ giải quyết sớm nhất có thể.

Nào ngờ, sau đó đồn cảnh sát vẫn tiếp tục trì hoãn không giải quyết, tôi đành phải đến phòng tiếp dân một lần nữa. Giám đốc phòng tiếp dân nghe xong liền nói: “Vừa hay hôm nay có cuộc họp, trưởng đồn và người của Phòng An ninh Chính trị chỗ các anh đều ở đây, tôi sẽ gọi họ đến, nói rõ mọi việc trước mặt họ, giải quyết cho nhanh.” Một lúc sau, trưởng đồn và người của Phòng An ninh Chính trị đều đến, người dẫn đầu của Phòng An ninh Chính trị là S.

S ngồi xuống đối diện, vừa đến đã lớn tiếng hét: “Tất cả vật phẩm của Pháp Luân Công đều là vật phẩm liên quan đến vụ án!” Rồi hỏi tôi: “Nghe thấy chưa?” Tôi vừa nói “Nghe thấy rồi”, anh ta liền nói một tiếng “Vậy là được rồi”, rồi quay người bỏ đi. Tôi lập tức đứng dậy, nói: “Đứng lại! Anh nói cho tôi biết, máy in nhà tôi liên quan đến vụ án gì?” Anh ta đứng lúng túng ở cửa, tiến không được, lùi cũng không xong. Lúc này, giám đốc phòng tiếp dân đến nói: “Đừng vội, anh cần gì thì viết ra, tôi sẽ giải quyết.” Tôi vừa chỉ ra vấn đề của S, vừa liệt kê từng vật phẩm liên quan trên “biên bản tạm giữ”, vì luật sư đã đưa cho tôi biên bản này.

Vài ngày sau, phó trưởng đồn mới tiếp nhận là L liên lạc với tôi, bảo chúng tôi đến lấy đồ, lúc này vợ tôi đã về nhà. Đến đồn cảnh sát, tôi và vợ nhìn đống đồ đạc trên sàn, nói: “Còn thiếu máy tính bảng và máy nghe nhạc phải không?” L nói: “Cái máy tính bảng của anh phải cho tôi biết mật khẩu, xác định bên trong sạch sẽ mới được. Còn cái máy nghe nhạc mà anh nói là cái radio nhỏ đúng không, cái thẻ nhớ nhỏ đó có nội dung ‘tuyên truyền phản động’, nên radio có thể trả cho anh, còn thẻ nhớ nhỏ thì không thể trả.” Tôi nói: “Thế này đi, những thứ còn tranh cãi thì để lần sau nói, những thứ không tranh cãi chúng tôi lấy về trước.” L vui vẻ đồng ý.

Tôi lại nói: “Nhưng đồ đạc nhiều thế này, lúc đó là dùng xe cảnh sát chở đến, chúng tôi dùng tay thì phải chuyển đến bao giờ? Hay là các anh dùng xe cảnh sát giúp chúng tôi chở về đi!” L nói một cách khoáng đạt: “Không vấn đề gì”, rồi lại nói: “Đừng dùng cái xe có đèn báo hiệu, quá phô trương, dùng cái xe công vụ kia đi.” Nói xong, anh ta và mấy cảnh sát khác chất đầy một xe đồ. Sau đó, L lại đi theo xe đưa đồ đến tận nhà tôi. Lúc về, anh ta nói một cách lấy lòng: “Anh chị ơi, hôm nay lái xe chở đồ không phải là công vụ đâu, đây là hành vi cá nhân của tôi đấy.” Chúng tôi cảm ơn anh ta.

Vì chúng tôi kiên quyết đòi lại sách Đại Pháp, trưởng đồn Z đã tiếp nhận, gọi chúng tôi vào một phòng riêng, nhỏ giọng nói với chúng tôi: “Các văn kiện các anh đưa tôi đều đã xem, và cũng đã tra cứu tài liệu trên mạng, trên sách, biết rằng những gì anh chị nói là thật, cũng là đúng, và tôi rất hiểu anh chị. Nhưng, nếu tôi tự ý đưa sách Pháp Luân Công cho các anh, thì tôi sẽ không còn mặc được bộ đồng phục này nữa (không còn làm cảnh sát được nữa). Nếu lúc chuyển đồ hôm đó tôi có mặt, kết quả đã không như thế này.”

Tiếp đó, ông ta kể câu chuyện về việc ông ta đã giúp đỡ các học viên Pháp Luân Công khi còn ở đồn cảnh sát khác. Trong cuộc nói chuyện, có thể cảm nhận rõ ràng ông ta đã nghe chân tướng và chấp nhận chân tướng. Thế là chúng tôi bày tỏ, để không làm khó ông ta, chúng tôi tạm thời không đề cập đến chuyện sách Đại Pháp nữa, nhưng không từ bỏ. Ông ta rất vui, nói: “Các sản phẩm điện tử khác còn cái nào chưa trả không?” Tôi buột miệng nói: “Thẻ nhớ nhỏ của máy nghe nhạc vẫn chưa trả.” Ông ta lập tức nói: “Làm ngay.”

Sau đó, một đồng tu địa phương nghe được chuyện nhà tôi, cũng đã có chính niệm mạnh mẽ hơn, đòi lại được chiếc xe ba bánh bị tạm giữ trái phép.

Kháng cáo và khiếu nại

Mặc dù vợ tôi đã về nhà, nhưng quá trình kháng cáo vẫn đang diễn ra. Cùng lúc nộp tài liệu bằng văn bản cho thẩm phán Tòa án Trung cấp, tôi đã xin làm người biện hộ cho người nhà của vợ tôi, thẩm phán đã rất nhanh đồng ý, và tôi đã nộp giấy ủy quyền ngay tại chỗ. Sau đó, thẩm phán lại hỏi chúng tôi có cần luật sư trợ giúp pháp lý nữa không, chúng tôi nhận ra đây là cơ hội tốt để tiếp xúc và giảng chân tướng cho luật sư địa phương, nên đã nói: “Cần chứ.”

Sau khi về nhà, tôi và vợ cùng nhau viết “Bản bổ sung tài liệu kháng cáo” có lý lẽ, có căn cứ, nhắm vào tất cả các hành vi vi phạm pháp luật của công an, viện kiểm sát, tòa án trong toàn bộ quá trình bức hại, kết hợp với tất cả các bằng chứng và kết luận bất hợp pháp trong bản án sơ thẩm trái pháp luật. Sau khi viết xong, chúng tôi nhanh chóng gửi đến Tòa án Trung cấp, và tận dụng mỗi cơ hội tiếp xúc với thẩm phán để cố gắng giảng chân tướng cho cô ấy nhiều hơn.

Vài ngày sau, tôi nhận được điện thoại từ một nữ luật sư, cô ấy nói mình là luật sư D, được Sở Tư pháp cử làm luật sư hỗ trợ pháp lý cho vợ tôi, cần tôi ký một bản ủy quyền, và hẹn chúng tôi đến văn phòng luật sư của cô ấy để trao đổi trực tiếp. Đến giờ hẹn, chúng tôi mang theo Văn kiện Công Thông Tự [2000] số 39 và “Công báo Quốc vụ viện” kỳ 28 đến văn phòng luật sư của luật sư D. Cô ấy rất nhiệt tình, nói rằng đã đọc hồ sơ. Qua hồ sơ thấy quả thực có nhiều điểm bất hợp lý, và cô ấy hỏi yêu cầu của chúng tôi là gì. Vợ tôi đã kể ngắn gọn về các hành vi vi phạm pháp luật của công an, viện kiểm sát, tòa án trong quá trình xử lý vụ án, và nói với cô ấy rằng chúng tôi yêu cầu phiên phúc thẩm được xét xử công khai. Luật sư D nói cô ấy sẽ đi trao đổi với thẩm phán phúc thẩm xem có thể đạt được không. Tôi lại từ góc độ pháp lý nói về tính hợp pháp của tín ngưỡng và sự phi pháp của cuộc bức hại, và đưa cho cô ấy hai văn kiện đó, đề nghị cô ấy tìm hiểu thêm.

Trong quá trình nói chuyện, luật sư D tỏ ra khá chính nghĩa, cũng rất đồng cảm với chúng tôi, chúng tôi cũng khen ngợi và động viên cô ấy một cách thích đáng, cuối cùng tôi hỏi cô ấy: “Nếu sau này có trường hợp tương tự, cô có sẵn lòng làm luật sư biện hộ cho học viên Pháp Luân Công không?” Cô ấy không trả lời trực diện, nhưng qua lời nói có thể nghe ra rằng cô ấy có thể làm được.

Trong thời gian này, vợ tôi đọc được một bài viết “Cảm nghĩ về việc một người thường gửi vạn lá thư kêu oan, công an buộc phải hủy án”. Được bài viết này truyền cảm hứng, cô ấy đã viết một bức thư kêu gọi giúp đỡ với lý do yêu cầu phiên phúc thẩm được xét xử công khai. Trong thư kể lại từ đầu đến cuối vụ án oan mà vợ tôi phải chịu, cách đối xử vi phạm pháp luật của công an, viện kiểm sát, tòa án ở các giai đoạn đối với vợ tôi, cũng như sự phi pháp trong ý kiến kết luận và sự sai lầm trong việc áp dụng pháp luật, trong đó có lồng ghép nội dung của Văn kiện Công Thông Tự [2000] số 39 và nội dung của Lệnh số 50 của Tổng cục Báo chí và Xuất bản trong “Công báo Quốc vụ viện” kỳ 28, với hy vọng lãnh đạo các ban ngành liên quan có thể khéo dùng quyền lực trong tay mình để ra tay giúp đỡ.

Bức thư này được gửi đến các lãnh đạo chủ chốt của các ban ngành liên quan như công an, viện kiểm sát, tòa án, đảng ủy, cơ quan chính phủ ở cấp quận, thành phố, tỉnh và trung ương, lần lượt gửi đi khoảng 200 bức. Sau khi thư kêu gọi giúp đỡ được gửi đi, chúng tôi lần lượt nhận được tin nhắn từ đường dây nóng dịch vụ tố tụng 12368, từ Tòa án tỉnh và Tòa án Tối cao, và năm, sáu tin nhắn từ Cục Khiếu nại tỉnh, tất cả đều cho biết sẽ yêu cầu các ban ngành liên quan xử lý.

Hơn một tháng sau, luật sư D nói với tôi rằng thẩm phán yêu cầu cô ấy nộp bản biện hộ, đã thúc giục mấy lần, cô ấy cảm thấy hơi khó chống đỡ. Tôi nói với cô ấy: “Không thể nộp, thẩm phán chính là muốn không mở phiên tòa, nộp bản biện hộ thì sẽ trực tiếp kết án, chúng ta sẽ không có cơ hội biện hộ nữa.” Cô ấy không biết phải làm thế nào, hy vọng tôi sẽ trao đổi với thẩm phán.

Tôi và vợ bàn bạc: “Xem ra Tòa án Trung cấp không muốn mở phiên tòa. Bây giờ, thẩm phán gây áp lực cho luật sư, dù sao cũng là luật sư trợ giúp pháp lý, cô ấy có thể không chịu được áp lực, có thể sẽ nộp lời biện hộ mà không có sự đồng ý của chúng ta, như vậy Tòa án Trung cấp sẽ không mở phiên tòa mà kết án trực tiếp, trước đây các phiên phúc thẩm ở địa phương chúng ta đều kết án qua loa như vậy. Để ngăn chặn tình huống này xảy ra, chúng ta sẽ nộp cho Tòa án Trung cấp một bản tuyên bố chấm dứt ủy quyền luật sư, như vậy cô ấy sẽ không còn tư cách đại diện cho vụ án của chúng ta nữa, thẩm phán cũng sẽ không đòi lời biện hộ từ cô ấy nữa.” Chúng tôi nhanh chóng viết một bản tuyên bố chấm dứt ủy quyền luật sư, nộp cho Tòa án Trung cấp. Thẩm phán cũng không hỏi lý do chấm dứt, chỉ hỏi chúng tôi có cần chỉ định một luật sư trợ giúp pháp lý khác không, chúng tôi đương nhiên vui vẻ đồng ý, vì đây chính là cơ hội tốt để tiếp xúc nhiều hơn với các luật sư. Sau đó, luật sư D tỏ ra không hiểu tại sao chúng tôi lại nhanh chóng chấm dứt ủy quyền với cô ấy như vậy, chúng tôi nói với cô ấy: “Là vì không muốn cô phải chịu áp lực quá lớn.” Cô ấy cũng đã hiểu.

Sau đó, Tòa án Trung cấp lại chỉ định một luật sư H. Lần đầu tiên cô ấy gọi điện, đã hỏi ngay lý do tại sao luật sư trợ giúp pháp lý trước đó bị chấm dứt ủy quyền, vợ tôi đã giải thích rõ ngọn ngành. Cô ấy liền nói: “Vậy thì chị cứ từ chối tôi thẳng đi, chắc tôi cũng không đạt được yêu cầu của các chị đâu.” Vợ tôi nhất thời không biết trả lời thế nào, liền đồng ý.

Sau khi về nhà, vợ tôi kể lại với tôi, tôi nói: “Đừng từ chối cô ấy ngay, nên cho cô ấy một cơ hội, ít nhất chúng ta nên gặp mặt nói chuyện, làm sao cô ấy biết mình không làm được chứ? Để anh gọi điện cho cô ấy thử xem.” Thế là tôi gọi điện, tôi nói: “Yêu cầu của chúng tôi thực ra cũng không có gì khó làm, không phải các luật sư hành nghề độc lập sao? Không phải nên lắng nghe ý kiến của thân chủ sao? Cô không nộp lời biện hộ, thì Sở Tư pháp làm gì được cô chứ?” Cô ấy cười lớn, nói: “Cũng phải, thực ra, ở bên Sở Tư pháp cũng chẳng có áp lực gì. Không nộp lời biện hộ, tôi lại còn nhàn hơn!” Cứ như vậy, chúng tôi hẹn gặp nhau tại văn phòng luật sư của cô ấy.

Sau khi gặp mặt, tôi cảm thấy luật sư H trước đây chưa từng tiếp xúc với Pháp Luân Công, không hiểu rõ, nhưng cũng không phản đối những gì chúng tôi nói. Chúng tôi đã nói chuyện khoảng hơn hai giờ, từ vụ án cụ thể của chúng tôi đến cuộc bức hại Pháp Luân Công trên tổng thể; từ sự phi pháp, vi hiến của các giải thích tư pháp của Tòa án Tối cao và Viện kiểm sát Tối cao, đến việc tòa án, viện kiểm sát bị lợi dụng để áp dụng sai pháp luật nhằm bức hại các học viên Pháp Luân Công; từ sự ủng hộ của chính phủ đối với Pháp Luân Công trước năm 1999, đến việc bịa đặt vu khống sau ngày “20 tháng 7”; từ các phong trào chính trị trong lịch sử như “Cách mạng Văn hóa”, “Lục Tứ” đến cuộc bức hại Pháp Luân Công; từ vụ án oan cá nhân đến sự thiếu thốn về nhân quyền, tín ngưỡng, tự do ngôn luận của người dân trong xã hội nói chung…

Trong quá trình nói chuyện, cũng có người khác đến tìm cô ấy giải quyết công việc, cô ấy xử lý nhanh chóng xong, rồi lại quay lại chủ đề của chúng tôi. Mặc dù cô ấy rất bận, nhưng tôi cảm thấy cô ấy rất sẵn lòng lắng nghe chúng tôi nói. Cuối cùng, luật sư H nói: “Rất khâm phục các anh chị.” Thậm chí còn cười nói với tôi: “Anh ơi, trình độ của anh có thể làm luật sư chuyên nghiệp được rồi.” Tôi cũng cười đáp lại: “Các phương diện khác thì không dám nói, nhưng về phương diện biện hộ cho Pháp Luân Công, tôi dám nói tôi không thua kém luật sư chuyên nghiệp.”

Cuối cùng, luật sư H hứa rằng, nếu không có sự đồng ý của chúng tôi, cô ấy sẽ không nộp lời biện hộ, và nói sẽ trao đổi lại với Tòa án Trung cấp, cố gắng để có thể mở phiên tòa xét xử. Chúng tôi đã để lại cho cô ấy Văn kiện [2000] số 39 và Lệnh số 50 của Tổng cục Báo chí và Xuất bản. Khi chúng tôi đứng dậy ra về, cô ấy đã tiễn chúng tôi ra khỏi văn phòng luật sư, nói rằng có việc gì thì có thể tìm cô ấy. Sau này, khi ở địa phương lại có đồng tu bị bắt cóc đến trại tạm giam, cần mời luật sư gặp mặt một lần, chúng tôi đã đưa cho người nhà số điện thoại của luật sư H. Khi người nhà và đồng tu tìm đến cô ấy, cô ấy đã vui vẻ đồng ý, và chi phí rất thấp.

Mặc dù chúng tôi đã rất nỗ lực để thúc đẩy phiên phúc thẩm được mở, nhưng vẫn không thành công. Sau năm tháng, thẩm phán gọi điện cho tôi nói: “Phiên phúc thẩm sẽ không mở, xét xử qua hồ sơ. Nếu không nộp lời biện hộ, sẽ được coi là từ bỏ quyền biện hộ. Người biện hộ có vẫn không nộp lời biện hộ không?” Tôi nói: “Đúng vậy, chúng tôi không từ bỏ quyền yêu cầu xét xử công khai.”

Sau đó, vợ tôi đã khiếu nại thẩm phán phúc thẩm trên mạng, truy cứu trách nhiệm pháp lý của bà ấy vì đã từ chối xét xử công khai theo quy định của pháp luật. Sau khi nhận được quyết định phúc thẩm, vợ tôi nhận được điện thoại của thẩm phán phúc thẩm, bà ấy nói: “Cơ quan khiếu nại đã nhận được khiếu nại của chị, bảo tôi giải thích với chị.” Vợ tôi lại nói với bà ấy lý do chúng tôi cho rằng nên mở phiên tòa xét xử, và nói rằng xét xử qua hồ sơ, kết án mà không có ý kiến biện hộ là vi phạm pháp luật. Thẩm phán phúc thẩm biện hộ vài câu, cuối cùng nói: “Phiên phúc thẩm đã kết thúc rồi, chị cứ khiếu nại đi.”

Trước đó, trong số các đồng tu mà chúng tôi quen biết ở địa phương, chưa nghe ai từng làm thủ tục khiếu nại, vì vậy chúng tôi cũng không rõ cụ thể phải làm như thế nào, thế là chúng tôi đã nhờ đến Diễn đàn Công lý. Trên Diễn đàn Công lý, trong cuộc thảo luận về cách làm tốt việc khiếu nại, có một đoạn viết thế này: Chúng ta vận dụng pháp luật để phản bức hại, mục đích là để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đồng tu, giải cứu đồng tu, nhưng quan trọng hơn là thông qua hình thức này để giảng chân tướng, cứu độ thế nhân. Về điểm này, khiếu nại có ưu thế hơn so với tố cáo. Hình thức của đơn tố cáo rất nghiêm ngặt, không thể triển khai giảng chân tướng. Còn trong đơn khiếu nại, chúng ta có thể nhắm vào những điểm vi phạm pháp luật của bản án để triển khai giảng chân tướng, có thể nói về pháp luật, về tín ngưỡng, về các giá trị phổ quát của xã hội, đạo đức, chính nghĩa, lương tri, v.v..

Thế là chúng tôi đã xác định rõ cơ điểm để viết đơn khiếu nại, chính là dùng hình thức khiếu nại để phơi bày cuộc bức hại, giảng rõ chân tướng, chứng thực Đại Pháp, cứu độ chúng sinh. Trong đơn khiếu nại, trước hết, chúng tôi viết chi tiết ra tất cả các sự thật về hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm của công an, viện kiểm sát, tòa án ở mỗi giai đoạn, sau đó đối chiếu với các luật liên quan, trình bày rõ ràng từng điều một các hành vi công khai vi phạm pháp luật, cố ý vu khống của công an, viện kiểm sát, tòa án, qua đó phơi bày việc công an, viện kiểm sát, tòa án khoác áo pháp luật để chà đạp pháp luật, bức hại một cách không kiêng dè những công dân lương thiện hợp pháp, để mọi người thấy được rốt cuộc ai đang vi phạm pháp luật và phạm tội; và lấy việc Pháp Luân Công không phải là tà giáo để triển khai giảng chân tướng Pháp Luân Đại Pháp, sự hồng truyền trên toàn thế giới; việc ĐCSTQ đàn áp Pháp Luân Công hơn 20 năm qua hoàn toàn không có cơ sở pháp lý, các luật được viện dẫn để bức hại học viên Pháp Luân Công đều là vi phạm pháp luật, vi hiến, tất cả các lý do bức hại đều là dối trá, để mọi người thấy rõ sự hoang đường và tà ác của ĐCSTQ trong việc bức hại Pháp Luân Công.

Cuối cùng, bằng thể ngộ tu luyện của chính vợ tôi, chúng tôi kể về sự tốt đẹp của Pháp Luân Đại Pháp, làm rõ các lời dối trá mà ĐCSTQ bịa đặt trong cuộc bức hại, đặc biệt là vụ án giả “Tự thiêu tại Thiên An Môn”, dùng thiên lý “nhân quả tuần hoàn, thiện ác hữu báo” và chính sách truy cứu trách nhiệm hiện hành để khuyên thiện tất cả các nhân viên công an, viện kiểm sát, tòa án vẫn đang bị lôi kéo tham gia bức hại Pháp Luân Công, khuyên họ hãy giữ vững lương tri, nghiêm khắc dựa trên sự thật và pháp luật, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người khiếu nại, bảo vệ sự thiêng liêng và tôn nghiêm của pháp luật, xét xử lại vụ án này, hủy bỏ bản án và quyết định oan sai đối với người khiếu nại, trả lại sự công bằng, công chính cho người khiếu nại.

Sau khi tôi và vợ cùng nhau hoàn thành bản thảo, chúng tôi đã gửi tin nhắn riêng cho các đồng tu chuyên môn trên diễn đàn để chỉnh sửa và kiểm tra. Sau khi được các đồng tu trên diễn đàn chỉnh sửa, chúng tôi in ra, kèm theo phụ lục là Văn kiện Công Thông Tự [2000] số 39 và “Công báo Quốc vụ viện” kỳ 28, nộp cho Tòa án Trung cấp qua cửa sổ khiếu nại. Trước khi nộp, chúng tôi phát nguyện: Mong rằng mỗi người đọc được đơn khiếu nại đều có thể hiểu rõ chân tướng, nhận rõ tà ác, không còn tham gia vào cuộc bức hại, và lựa chọn cho mình một tương lai tốt đẹp.

Sau khi đơn khiếu nại được nộp đi, thẩm phán phụ trách đã thay đổi nhiều lần, có vẻ như thời gian bị kéo dài, khiến chúng tôi phải đi lại nhiều lần. Thực ra chúng tôi biết, đây là để cho nhiều thẩm phán hơn nữa thấy được chân tướng. Sau hơn một năm, chúng tôi nhận được điện thoại từ nhân viên văn phòng của Tòa Giám đốc thẩm thuộc Tòa án Trung cấp, thông báo rằng một tuần sau sẽ đến Tòa án Trung cấp để tham dự phiên điều trần về đơn khiếu nại. Chúng tôi không rõ phiên điều trần là gì, và đối phương cũng không nói rõ được. Chúng tôi hỏi: “Cần mang theo gì?” Cô ấy nói: “Chỉ cần mang theo chứng minh nhân dân là được.” Tôi hỏi: “Người nhà có thể tham gia không?” Cô ấy nói: “Có thể.”

Vợ tôi lên Diễn đàn Công lý hỏi ý kiến các chuyên gia, các đồng tu trên diễn đàn đề nghị cần phải nắm vững đơn khiếu nại hình sự của mình, và chuẩn bị theo quy trình của một phiên tòa sơ thẩm hình sự. Một đồng tu trên diễn đàn từng tham gia phiên điều trần cũng đã đưa ra một số gợi ý quý báu dựa trên kinh nghiệm của mình. Tôi và vợ bàn bạc, mỗi người chúng tôi sẽ chuẩn bị một bản lời biện hộ, hoàn thành độc lập, không phụ thuộc vào nhau, để đảm bảo rằng bất kỳ ai trong chúng tôi khi đối mặt một mình cũng có thể trình bày ý kiến biện hộ một cách rõ ràng và đầy đủ. Mất khoảng một tuần, mỗi người chúng tôi đã viết một bản lời biện hộ dài gần chục trang. Mãi đến một ngày trước phiên điều trần, chúng tôi mới xem lời biện hộ của người kia, điều rất kỳ diệu là mỗi người chúng tôi đều trình bày đầy đủ quan điểm biện hộ vô tội, khi gộp lại có thể bổ sung cho nhau mà không hề trùng lặp.

Chúng tôi cũng đã thông báo tin về phiên điều trần cho các đồng tu địa phương, mọi người đều rất ủng hộ và phối hợp. Vào ngày diễn ra phiên điều trần, rất nhiều đồng tu đã đến gần Tòa án Trung cấp để phát chính niệm, cũng có nhiều đồng tu cầm chứng minh nhân dân đường đường chính chính vào dự thính. Khi phiên điều trần bắt đầu, chúng tôi mới phát hiện ra, vụ khiếu nại này đã kéo dài hơn một năm, qua tay ba vị thẩm phán, cuối cùng lại quay về tay vị thẩm phán đầu tiên. Có lẽ là các thẩm phán khác đều đã hiểu rõ qua đơn khiếu nại, không ai muốn tiếp nhận một vụ án được gọi là án như vậy, không muốn tiếp tục gánh tội thay cho cuộc bức hại này, nên đã đùn đẩy cho nhau, đến nỗi hơn một năm mà không có gì được xử lý, cuối cùng không còn cách nào khác, điểm kết thúc lại quay về điểm xuất phát.

Trước khi phiên điều trần bắt đầu, thư ký hỏi thân phận của tôi, tôi nói: “Là người biện hộ cho người thân.” Thư ký hỏi: “Có giấy ủy quyền không?” Tôi lập tức lấy ra. Vì có đồng tu trên Diễn đàn Công lý nhắc nhở, nên chúng tôi đã chuẩn bị từ trước. Lúc đó, tòa án này còn sắp xếp một vụ án khác, lại trùng vào đúng thời gian của chúng tôi. Chắc là thẩm phán lúc đó chỉ muốn làm cho qua chuyện, nói vài câu rồi cho chúng tôi đi, nên khi thư ký gọi chúng tôi vào, đã nói với nhóm đương sự kia: “Mọi người đợi một lát, lát nữa sẽ gọi mọi người.”

Thẩm phán không ngờ chúng tôi đã chuẩn bị đầy đủ như vậy, phiên điều trần đã diễn ra hơn một tiếng đồng hồ. Vợ tôi trình bày trước về quá trình vụ án và những điểm vi phạm pháp luật trong quá trình xử lý của công an, viện kiểm sát và tòa án, sau đó, tôi đọc lời biện hộ. Khi đọc đến phần trình bày về chân tướng cơ bản của Pháp Luân Công và việc Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền khắp thế giới, thẩm phán ngắt lời: “Các vị có văn bản giấy không? Lát nữa nộp cho chúng tôi, một số chi tiết thì không cần đọc hết.” Tôi nói: “Được, phần chi tiết này tôi sẽ không đọc, tôi sẽ đọc phần kết luận.” Tôi lớn tiếng đọc: “Vì vậy, Pháp Luân Công không phải là một tôn giáo, lại càng không phải tà giáo. Từ góc độ làm người, trong từ điển khó có thể tìm ra tiêu chuẩn nào tốt hơn ba chữ Chân-Thiện-Nhẫn. Coi đó là tà giáo, chẳng khác nào gọi bậc Thánh là kẻ trộm.” Thẩm phán cúi đầu.

Khi tôi đọc đến phần kết luận “diễn giải tư pháp là vi phạm pháp luật” trong lời biện hộ, thẩm phán đã ngắt lời tôi vài lần và nói: “Anh đang thảo luận về học thuật, chúng tôi không thảo luận về vấn đề lập pháp.” Tôi lập tức nói rõ với ông ấy: “Đây không phải là thảo luận học thuật, mấu chốt của vụ án oan sai này chính là diễn giải tư pháp này.” Thẩm phán không nói gì thêm, thế là tôi đã đọc xong toàn bộ lời biện hộ và cuối cùng đã mạnh mẽ yêu cầu tòa án trung cấp khởi động lại thủ tục tái thẩm.

Cảm tưởng

Một là, tu luyện là trên hết

Sư tôn giảng:

“Tu luyện cá nhân là không thể thả lỏng; bất luận là chư vị làm việc gì, như giảng chân tướng, hoặc chư vị làm các việc chứng thực Đại Pháp, thì trước tiên cần đặt tu luyện tốt bản thân vào vị trí số một, chư vị thực hiện những việc đó mới càng thần thánh hơn, bởi vì chư vị là đệ tử Đại Pháp, là đệ tử Đại Pháp đang làm việc chứng thực Pháp.” (Giảng Pháp tại Pháp hội New York năm 2007, Giảng Pháp tại các nơi VIII)

Đi qua bao nhiêu năm nay, tôi biết rất rõ rằng, là một người tu luyện, bất kể có kỹ năng, năng lực gì, nếu trong tâm không có chính tín đối với Sư phụ và Đại Pháp, không có Pháp lý rõ ràng, không có chính niệm mạnh mẽ, thì cũng chẳng thể nói đến điều gì.

Có những lời nói, có những nội dung, dẫu biết phải nói thế nào, thậm chí có thể đọc thuộc lòng, nhưng không có tâm tính làm nền tảng, thì vào thời khắc then chốt đầu óc vẫn trống rỗng, không nói ra được; cho dù gượng ép nói ra, cũng không khởi được tác dụng đáng có, chỉ là một thứ âm thanh nhẹ hẫng, vì không có năng lượng của người tu luyện.

Hai là, không có gì để hiển thị

Sư tôn giảng cho chúng ta:

“Các đệ tử Đại Pháp ngày nay dù chứng thực Pháp tập thể hay cá nhân chư vị giảng chân tướng, đều là [điều] Đại Pháp cần. Chính Pháp cần [gì], thì chư vị nên làm điều ấy cho tốt, không có gì có thể nói. Cũng không được tự đặt thân phận của bản thân mình cao quá, cũng không được tự cảm thấy mình khác người khác. Chư vị đều là một lạp tử, trong mắt của tôi, không ai giỏi hơn ai, vì chư vị đều là được tôi đồng thời vớt lên. (vỗ tay) Có vị về phương diện này có năng lực mạnh hơn một chút, có vị về phương diện kia mạnh hơn một chút, chư vị không được vì thế mà suy nghĩ hoang tưởng, chư vị nói ‘tôi có bản sự lớn thế này, thế này thế kia’, đó là Pháp trao cho chư vị! Chư vị không đạt tới thì vẫn không được đâu. [Là] Chính Pháp cần [và] khiến cho trí huệ của chư vị đạt tới bước đó, vì thế chư vị không được cảm thấy bản thân mình có bản sự gì. Có học viên muốn bảo tôi coi xem bản sự của anh ta, kỳ thực tôi nghĩ, ấy đều là tôi cấp cho, không cần xem.” (Giảng Pháp vào Tết Nguyên Tiêu năm 2003)

Đệ tử Đại Pháp đều là người tốt, người thiện lương, nếu không có cuộc bức hại này, nếu không phải do công việc yêu cầu, thì thực sự không cần tìm hiểu những điều luật khô khan này. Hơn nữa, một số thuật ngữ và điều khoản pháp lý cũng thực sự không dễ đọc hiểu, không dễ lý giải. Nhưng cuộc bức hại đã xảy ra, và tà ác đang sử dụng toàn bộ hệ thống pháp luật để tham gia bức hại, đã kéo dài 20-30 năm.

Vì vậy, những người sẵn lòng học một chút kiến thức pháp luật, hiểu một chút kiến thức pháp luật, đặc biệt là những người có thể làm được việc trong việc dùng pháp luật để phản bức hại, cũng đã trở thành những người có năng lực trong lĩnh vực này, và cũng khó tránh khỏi được các đồng tu đề cao và khen ngợi. Vì vậy, tôi tự nhắc nhở mình, khi có một chút năng lực, tuyệt đối không được vì thế mà sinh ra tâm hoan hỷ và hiển thị, thực ra cũng chẳng có gì để hiển thị cả.

Ba là, không để bị ỷ lại

Năng lực sử dụng pháp luật để phản bức hại không chỉ thể hiện ở việc biết nói, biết viết, mà một phương diện rất quan trọng là dám nói, dám viết. Nói cách khác, đối với nhiều đồng tu, đây không chỉ là vấn đề năng lực, mà còn liên quan đến vấn đề tâm sợ hãi. Bản thân năng lực đã dễ khiến người ta sinh tâm ỷ lại, mà tâm sợ hãi lại càng làm tăng thêm sự ỷ lại này.

Sư phụ muốn mỗi đệ tử chúng ta đều tu thành, mỗi người đều phải tự bước đi trên con đường của mình, vì vậy ỷ lại và bị ỷ lại đều là không được. Hiển thị năng lực, ôm đồm mọi việc, tâm làm việc mạnh, không chỉ là tu luyện của bản thân có vấn đề, mà còn ảnh hưởng đến tu luyện của đồng tu, chặn đường của người khác, có thể nói là hại người hại mình.

Sư phụ giảng:

“Tâm sợ hãi là một ‘cửa tử’ [trên con đường] từ người trở thành Thần.” (Vượt qua cửa tử, Tinh Tấn Yếu Chỉ III)

“Nhưng [vấn đề] có hay không cái tâm lo sợ, lại chính là kiến chứng cho sự phân biệt giữa người và Thần của người tu luyện, là chỗ khác biệt giữa người tu luyện và người thường, là việc mà người tu luyện nhất định phải đối diện, là nhân tâm lớn nhất mà người tu luyện cần phải bỏ.” (Học Pháp cho tốt, vứt bỏ nhân tâm sẽ không khó, Tinh Tấn Yếu Chỉ III)

Năm ngoái, một đồng tu ở khu vực lân cận bị bức hại, đồng tu trong nhóm giải cứu đã liên lạc với tôi, tôi nói: “Lúc này nên gọi điện cho viện kiểm sát, hỏi xem vụ án đã đến chỗ họ chưa.” Nhưng đồng tu liên lạc lại muốn tôi gọi cuộc điện thoại này. Sau khi suy nghĩ một lát, tôi đã trả lời trong thư: “Nếu ngay cả việc này các bạn cũng không làm được, thì tôi sẽ không tham gia nữa.”

Sau đó, có đồng tu tỏ ra không hiểu tôi: “Anh vì không muốn họ ỷ lại mà nhẫn tâm nhìn đồng tu bị bức hại mà không quan tâm sao?” Tôi nói: “Nếu tôi gọi cuộc điện thoại đó, thì tiếp theo tất cả những việc cần ra mặt đối ngoại sẽ đều do một mình tôi làm. Họ không những không làm được gì, mà còn không thể đề cao lên ở điểm này, không thể tu luyện lên được lại là do tôi gây ra. Chúng ta là người tu luyện, tu luyện mới là hàng đầu.”

Bốn là, về việc mời luật sư

Trong số các đồng tu ở địa phương, tôi là người tiếp xúc với luật sư khá sớm, và cũng quen biết khá nhiều luật sư. Cá nhân tôi cảm thấy, cảm giác chính nghĩa của nhóm “luật sư chính nghĩa” này đang ngày càng thoái hóa, theo những gì tôi thấy và nghe trong hai năm gần đây, biểu hiện của một số luật sư rất không được như ý. Tất nhiên, chúng ta biết rằng các luật sư cũng phải đối mặt với áp lực, và họ không tu luyện, đó chỉ là hành vi nghề nghiệp.

Hơn nữa, là đồng tu, khi nhìn thấy và tiếp xúc với những biểu hiện thiếu sót này của các luật sư, cũng có thể tồn tại vấn đề về phương diện tu luyện của bản thân, có nhân tố đề cao của bản thân trong đó. Đồng thời, cũng tồn tại việc các đệ tử Đại Pháp dành cho họ sự đề cao mang cái tình của người thường, những lời tâng bốc mang văn hóa đảng trong các cuộc nói chuyện, cũng đều là nguyên nhân khiến biểu hiện của họ không được như ý. Ngoài ra, các cuộc bức hại vẫn thường xảy ra ở khắp nơi trên cả nước, và mọi người đều đang tranh giành nguồn tài nguyên hạn hẹp này.

Vì vậy, từ lâu tôi đã cảm thấy nên tận dụng triệt để cơ hội tìm luật sư cho các đồng tu bị bức hại, thông qua các phương thức như gọi điện, gửi tin nhắn, gửi email hoặc gặp mặt trực tiếp, để tiếp xúc rộng rãi với các luật sư địa phương, giảng thanh chân tướng cho họ. Để nhiều luật sư hơn nữa được cứu, đồng thời để họ phát huy tác dụng, biện hộ cho các đệ tử Đại Pháp, lựa chọn tương lai cho chính mình, và cải thiện môi trường tu luyện tại địa phương. Vừa tăng thêm nguồn luật sư có thể sử dụng, lại vừa có nhiều ưu điểm như phí thấp, liên lạc thuận tiện, gặp mặt thuận tiện.

Trong quá trình vợ tôi hai lần bị bức hại, tôi đều làm như vậy, và đúng là không khó như tưởng tượng. Họ cũng là chúng sinh, họ cũng đang chờ được cứu. Hơn nữa, vì họ có kiến thức chuyên môn, nên từ góc độ này mà nói, họ dễ dàng lý giải và đồng tình rằng đệ tử Đại Pháp là vô tội. Chỉ riêng trong thời gian vợ tôi bị bức hại lần thứ hai, trong số các luật sư địa phương mà tôi liên lạc, đã có hơn 20 luật sư sẵn lòng biện hộ vô tội cho đệ tử Đại Pháp, và mức phí cao nhất chỉ là 10.000 nhân dân tệ, có người còn lấy dưới 5.000 nhân dân tệ.

Mấy hôm trước, ở địa phương tôi lại có một đồng tu bị bắt giữ trái phép, đồng tu tham gia giải cứu đã đến tìm tôi bàn bạc, tôi đã đề xuất với anh ấy về việc tìm luật sư như trên.

Ngoài ra, không biết từ lúc nào, tôi dần dần phát hiện ra một hiện tượng: mỗi khi tôi cần viết những bài viết quan trọng, ví dụ như viết bài kêu gọi gửi bài, thì biểu hiện của bệnh cảm cúm nặng lại đột nhiên ập đến, khiến tôi nước mắt nước mũi giàn giụa, can nhiễu rất lớn. Đến khi tôi viết xong, gửi đi rồi, thì biểu hiện của bệnh nghiệp này cũng biến mất.

Tôi ngộ ra rằng: Bài viết của đệ tử Đại Pháp là có tác dụng, có thể trừ tà diệt ác, có thể cứu người. Vì vậy, bất kể có được đăng hay không, đều phải viết, đều phải hoàn thành một cách nghiêm túc. Hơn nữa, từ chỗ ban đầu phải gắng gượng tinh thần, hoàn thành bản thảo trong khi chịu đựng đau đớn, đến giờ tôi đã chuyển sang vừa chủ động dùng chính niệm trừ ác vừa viết bài.

(Hết)

(Bài viết được chọn đăng cho Pháp hội Trung Quốc Đại lục lần thứ 22 trên Minh Huệ)

Bản quyền © 1999-2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.


Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2025/11/11/502280.html

Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2025/11/16/231337.html