Đến Bắc Kinh chứng thực Pháp dưới sự bảo hộ của Sư phụ
Bài viết của một đệ tử Đại Pháp tại tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc
[MINH HUỆ 28-07-2025] Nhìn lại hành trình tu luyện của mình, tôi tin rằng khoảnh khắc khó quên nhất trong đời tôi là chuyến đi đến Bắc Kinh để chứng thực Pháp. Đó cũng là một khoảng thời gian kỳ diệu, minh chứng cho việc chúng ta có Sư phụ bảo hộ. Là đệ tử Đại Pháp trong thời kỳ Chính Pháp, chúng ta nên lên tiếng vì Đại Pháp khi Đại Pháp bị bức hại, trợ Sư chính Pháp và hoàn thành lời thệ ước của mình.
Vào mùa thu năm 2001, gia đình tôi thu hoạch bắp cải và kiếm được 800 nhân dân tệ. Chồng tôi và tôi mỗi người lấy 400 nhân dân tệ và lên kế hoạch cùng một vài đồng tu đến Bắc Kinh để chứng thực Đại Pháp. Chồng tôi nói: “Em đi trước đi. Khi nào em về, anh sẽ đi sau.” Thế là bốn học viên chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình đến Bắc Kinh để chứng thực Pháp.
Điểm dừng chân đầu tiên của chúng tôi là một thành phố lân cận, tại đó chúng tôi được các đồng tu nhiệt tình đón tiếp. Họ đưa chúng tôi đến một nhà hàng và giải thích về chuyến đi đến Bắc Kinh. Một học viên nói: “Chúng ta nên giống như Lưu Hồ Lan, một liệt sĩ cộng sản, thà chết chứ không chịu đầu hàng.” Tôi đáp: “Chúng ta không giống Lưu Hồ Lan. Chúng ta là người tu luyện—những người siêu thường. Chúng ta có Sư phụ bảo hộ, chúng ta có Thần hộ mệnh!”
Các đồng tu trong thành phố đã giúp chúng tôi mua vé tàu, ăn cơm xong chúng tôi ra ga tàu. Chuyến tàu dự kiến khởi hành vào khoảng 9 giờ tối. Bốn người chúng tôi động viên nhau rồi bắt đầu nhẩm đọc các bài thơ trong cuốn Hồng Ngâm của Sư phụ. Khi chúng tôi đang nhẩm đọc, tàu đã đến, chúng tôi liền lên tàu.
Sau đó chúng tôi phải đối mặt với một khảo nghiệm. Khi mọi người đang tìm chỗ ngồi, tôi nhận thấy chỗ của mình đã bị một người đàn ông đến từ Tế Nam chiếm mất. Cả ba người bạn đồng hành đều khuyến khích tôi lấy lại chỗ ngồi, nhưng tôi ra hiệu rằng không cần. Tôi đứng cạnh người đàn ông và hỏi anh ấy đó có phải là chỗ của anh không. Anh ấy trả lời: “Tôi đã mua chỗ này với giá 10 nhân dân tệ.” Tôi nói: “Anh đã bỏ ra 10 tệ để mua, vậy anh cứ ngồi ở đây đi.” Tôi cho anh ấy xem vé của mình, nhưng anh ấy không đứng dậy. Sau đó tôi hỏi anh ấy sẽ xuống ở đâu, anh ấy nói xuống ở Tế Nam. Tôi đáp: “Tôi sẽ ngồi chỗ này sau khi anh xuống.” Người lính ngồi cạnh người đàn ông nói: “Đây là chỗ của cô ấy, anh nên trả lại cho cô ấy!” Người đàn ông không nhúc nhích, tôi liền nói không vấn đề gì.
Tôi nhớ lại một câu chuyện về việc Sư phụ đi tàu. Vào ngày cuối cùng của một khóa giảng Pháp, các đồng tu đã đi cùng Sư phụ đến một thành phố khác. Khi họ đến ga tàu, mọi người đều háo hức lên tàu. Sư phụ đã đến sân ga từ sớm và đợi đến khi tất cả mọi người lên tàu rồi Ngài mới lên. Còn một chỗ trống, nếu Sư phụ đi nhanh hơn một chút, Ngài đã có thể ngồi vào đó. Nhưng Ngài đã không làm vậy và để một người thường ngồi vào đó. Sư phụ đã nêu một tấm gương sáng cho chúng ta. Tôi nhận ra rằng mình không nên tranh giành những chuyện nhỏ nhặt với người thường nữa.
Tôi đã muốn tranh luận với người đó vì tôi đã chi 168 nhân dân tệ cho vé của mình trong khi anh ấy chỉ chi 10 nhân dân tệ. Tuy nhiên, sau đó tôi nhận ra rằng có lẽ anh ấy đang giúp tôi buông bỏ chấp trước vào lợi ích vật chất. Tôi tự hỏi: “Mình là ai? Tại sao mình ở đây? Mình ở đây để thực hiện sứ mệnh. Mục đích của mình là trợ Sư chính Pháp và hoàn thành lời thệ ước của mình!” Một số học viên đã đến Bắc Kinh, nhưng đã bị chặn lại và đưa về quê. Chúng tôi đi đường vòng để tìm cách đến Bắc Kinh. Tôi biết đây không phải là lúc để so đo tính toán những chuyện nhỏ nhặt. Tôi cần phải có lòng từ bi với tất cả chúng sinh! Dù mệt mỏi đến đâu, tôi cũng phải hành xử dựa trên nguyên tắc Chân-Thiện-Nhẫn. Tôi phải đến được Bắc Kinh!
Khi tàu đến ga Tế Nam, người chiếm chỗ của tôi đã xuống tàu, cuối cùng tôi cũng được ngồi xuống.
Khi chúng tôi đến Bắc Kinh, chúng tôi đã đi theo chỉ dẫn của đồng tu và tìm đường đến Quảng trường Thiên An Môn. An ninh rất nghiêm ngặt, vì vậy chúng tôi quyết định chia thành từng cặp. Tôi đi cùng một nữ học viên khác, chúng tôi giương biểu ngữ và hô lớn hết mức có thể: “Pháp Luân Đại Pháp hảo! Pháp Luân Đại Pháp là chính Pháp!” Khoảnh khắc đó, đầu óc tôi trống rỗng, cảm giác như không khí xung quanh chúng tôi đã đông cứng lại trong im lặng. Tiếng hô mạnh mẽ của chúng tôi vang vọng khắp Quảng trường Thiên An Môn.
Khi tôi đang chìm đắm trong cảnh tượng này, một chiếc dùi cui điện vụt vào tôi, khiến tay phải của tôi buông lỏng. Hai viên cảnh sát giật lấy biểu ngữ. Một viên cảnh sát giẫm lên nó, người kia nói: “Giẫm lên nó làm gì?” Sau đó, anh ấy nói với chúng tôi: “Đừng đến đây nữa. Hãy về nhà và làm việc của mình đi.” Sau đó, họ đưa chúng tôi đến Đồn Công an Trạm Tiền và nhốt chúng tôi vào một căn phòng.
Nhiều học viên Pháp Luân Đại Pháp đến từ các khu vực khác cũng đang bị giam giữ trong căn phòng đó. Một viên cảnh sát hỏi một người khác rằng có cần thẩm vấn chúng tôi không. Viên cảnh sát đó trả lời rằng không cần. Chúng tôi đến Quảng trường Thiên An Môn lúc 2 giờ sáng và bị đưa đến Đồn Công an Trạm Tiền lúc 4 giờ sáng, tại đây chúng tôi bị giam giữ đến hơn 9 giờ tối.
Một viên cảnh sát đá vào chân mỗi người chúng tôi. Sau đó, chúng tôi nghe thấy một người phụ nữ ở phòng giam khác hét lên: “Tôi cần đi vệ sinh.” Tôi nói với đồng tu đi cùng tôi: “Chúng ta cũng đi thôi.” Một ý nghĩ lóe lên trong đầu tôi: “Trốn thoát là thượng sách.” Sau đó, tôi thì thầm với cô ấy: “Chúng ta đi thôi.” Cô ấy hỏi: “Chị có muốn lấy đồ của mình không?” Tôi nói không. Sau đó chúng tôi đứng dậy và rời đi. Khi chúng tôi đến cổng chính, viên nữ cảnh sát đã không ngăn chúng tôi lại. Cô ấy dường như đã bị khống chế và không có phản ứng gì. Chúng tôi đã an toàn thoát ra ngoài!
Sau khi rời khỏi đồn công an, chúng tôi không biết phải đi đâu. Chúng tôi đi lang thang một lúc, rồi thấy một cặp vợ chồng lớn tuổi đang tiến về phía chúng tôi. Tôi hỏi: “Làm thế nào để đến ga xe lửa Bắc Kinh?” Người phụ nữ trả lời: “Các cô cứ vào lối vào tàu điện ngầm ở đó và đi tàu đến ga xe lửa.” Tôi nghĩ cặp vợ chồng này hẳn là do Sư phụ cử đến để chỉ đường cho chúng tôi.
Đến nửa đêm, hai học viên còn lại trong làng chúng tôi cũng đã được trả tự do. Thật là kỳ diệu! Sư phụ đã luôn bảo hộ chúng tôi khi chúng tôi bước đi trên con đường chứng thực Pháp bằng chính niệm chính hành. Không ai dám động đến chúng ta khi chúng ta buông bỏ quan niệm người thường và các chấp trước, quên đi những trở ngại đang ngăn cản chúng ta và đi theo con đường Sư phụ đã an bài. Sau khi chúng tôi trở về, chồng tôi và các đồng tu cũng đi chứng thực Pháp. Tuy nhiên, hơn 60 người cuối cùng đã bị giam giữ. Chồng tôi bị giam ở Bắc Kinh trong tám ngày, sau đó bị cảnh sát địa phương đưa về và giam trong một trại tạm giam. Tôi đã liên lạc với gia đình của các học viên bị giam và đề nghị: “Chúng ta hãy đến Cục An ninh Chính trị để yêu cầu họ thả người.” Đến lúc đó, các học viên bên trong đã tuyệt thực được vài ngày.
Khi chúng tôi đến, trưởng phòng đã mắng chúng tôi: “Các người đến đông như vậy. Các người định nổi loạn à?” Chúng tôi đáp: “Họ đã tuyệt thực nhiều ngày rồi, tính mạng của họ đang gặp nguy hiểm. Nếu họ chết, ông có chịu trách nhiệm được không? Hơn nữa, họ không vi phạm pháp luật nào cả. Họ chỉ là những người tốt tuân theo Chân-Thiện-Nhẫn. Điều đó có gì sai? Chẳng phải Hiến pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng sao? Điều này có gì khác với việc tin vào Phật giáo hay các tôn giáo khác?” Ông ấy trả lời: “Vậy thì hãy quay lại Cục Công an và nói với họ rằng có quá nhiều người khiếu nại ở đây.” Vì vậy, chúng tôi đã đi theo ông ấy trở về.
Nhưng khi chúng tôi đến đồn công an, trưởng phòng bắt đầu chửi bới thậm tệ. Lúc đó, tôi học Pháp chưa đủ sâu và vẫn còn tâm tranh đấu, nên tôi chỉ nói về các đạo lý của người thường. Bài viết “Chỉ rõ” của Sư phụ trong cuốn “Tinh Tấn Yếu Chỉ II” đã được công bố, nhưng tôi chưa hoàn toàn hiểu được. Sau đó, chúng tôi đã giảng chân tướng về Pháp Luân Đại Pháp cho trưởng phòng. Đến tối hôm sau, một nửa số học viên bị giam đã được thả, nửa còn lại được thả vào ngày hôm sau.
Ba ngày sau khi các đồng tu của tôi được trả tự do, một viên cảnh sát lại triệu tập chồng tôi. Anh ấy đến đồn lúc 2 giờ chiều, nhưng đến 4 giờ chiều vẫn chưa được thả. Tôi nhận ra mình phải giúp anh ấy ra ngoài, vì vậy tôi đã tự mình đến đồn công an.
Khi đến nơi, tôi hỏi: “Tại sao các ông không thả chồng tôi?” Viên cảnh sát trả lời: “Cô có gì đảm bảo rằng ông ấy sẽ không đến Bắc Kinh? Cô cần phải trả cho chúng tôi 2.000 nhân dân tệ để đảm bảo.” Tôi đáp: “Tôi không có nhiều tiền như vậy. Nếu có, tôi cũng sẽ đến Bắc Kinh.” Viên cảnh sát sau đó nói: “Trong trường hợp đó, cô sẽ cần phải giao nộp giấy tờ nhà đất của mình.” Tôi không do dự, lập tức quay về nhà lấy giấy tờ, tự nhủ: “Còn người là còn của!” Sau đó chồng tôi đã cùng tôi trở về nhà.
Bản quyền © 1999-2025 Minghui.org. Mọi quyền được bảo lưu.
Bản tiếng Hán: https://www.minghui.org/mh/articles/2025/7/28/497388.html
Bản tiếng Anh: https://en.minghui.org/html/articles/2025/9/26/229986.html


